Nhà thơ Lê Nguyên Ngữ và phu nhân.
"Có giòng sông chảy mãi
chẳng gặp cầu
Để nước dỗi đôi bờ chao mặt sóng
Về Phan Thiết, Cà Ty lòng chẳng rộng
Lại nối bờ vui mấy chiếc cầu!
Chẳng phải vô tình chia Phan Thiết ra đâu
Bởi sóng vỗ ngoài kia mời mọc quá!
Khao khát biển vội chồm qua thị xã
Nên cầu hóa thành lời xin lỗi của sông
Để hai bờ chín đợi, mười mong
Dù tầm gọi chỉ "Đò ơi...!" chớ
mấy
Đứng bên này thấy bên kia tay vẫy
Nhưng sông vẫn trềnh tràng mời mọc chuyến
đò ngang
...
Ba chiếc cầu vạch mấy trường canh
Chảy giòng nhạc Cà Ty bờ bến hát
Cho mỗi câu thơ tôi viết về Phan Thiết
Là nhịp cầu hò hẹn để em sang".
Những câu thơ trên được trích trong bài thơ "Phan Thiết Cà Ty chảy gặp cầu" của Lê Nguyên Ngữ. Bài thơ ra đời vào đầu những năm 80 của thế kỷ 20. Khi bài thơ vừa ra đời chưa kịp ráo mực của tác giả, lúc bấy giờ, ở Phan Thiết có một vài người tỏ ra là người có "lập trường - quan điểm" đã cắt nhỏ bài thơ ra lấy một câu "bởi sóng vỗ ngoài kia mời mọc quá", rồi lớn lối "chụp mũ" cho Lê Nguyên Ngữ làm thơ cổ động người vượt biển trốn ra nước ngoài!?? Thật là buồn cười! Mặc cho những người "ấm đầu" chụp mũ, đến hôm nay đã hơn 30 năm, "Phan Thiết Cà Ty chảy gặp cầu" vẫn neo đậu trong lòng người yêu thơ và những người yêu Phan Thiết thân yêu - trở thành một trong những bài thơ hay viết về phố biển Phan Thiết.
Kể từ khi bài thơ "Phan Thiết Cà Ty chảy gặp cầu" ghi dấu ấn trong lòng người yêu thơ, Lê Nguyên Ngữ bắt đầu chuyển sang viết truyện ngắn. Từ năm 1983 đến năm 2016, truyện ngắn của Lê Nguyên Ngữ thường xuyên xuất hiện trên các báo và tạp chí văn nghệ trên cả nước. Anh đã xuất bản được 10 tập truyện ngắn, có đến 15 lần đoạt giải thưởng về truyện ngắn, bao gồm nhiều giải thưởng từ địa phương đến trung ương. Lê Nguyên Ngữ được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam. Riêng thơ, mãi đến năm 2012, nhà xuất bản Văn học mới in và phát hành tập thơ Lê Nguyên Ngữ.
Qua theo dõi sự nghiệp sáng tác văn chương của Lê Nguyên Ngữ, chúng tôi thiển nghĩ: Mai này, có lẽ bạn đọc sẽ quên một " Lê Nguyên Ngữ Truyện ngắn ". Dù số lượng truyện ngắn được xuất bản và đạt giải thưởng của anh thật nhiều. Nhưng, chúng tôi tin chắc một điều: Những người yêu văn chương sẽ nhớ đến thơ của Lê Nguyên Ngữ. Và, những bài thơ của anh sẽ mãi mãi tỏa sáng, lung linh trên bầu trời thi ca.
Từ năm 1974, thơ của Lê Nguyên Ngữ đã xuất hiện trên Thời Tập, Khởi Hành... các tạp chí văn học ở miền Nam. Bài thơ "Xế đời đao phủ thủ" của anh đã tạo được “ tiếng dội trong lòng” bạn đọc. Lê Nguyên Ngữ tên thật là Lê Văn Tám. Anh sinh ra và lớn lên ở Sa Ra, một làng quê nghèo quanh năm đầy nắng gió thuộc huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Lê Nguyên Ngữ đã đưa đặc sản "Gió" của miền cực Nam Trung Bộ vào thơ. Trong thơ Lê Nguyên Ngữ, "Gió" không còn là hiện tượng thời tiết, "Gió" còn là tâm tình, là trạng thái của tâm hồn, gắn bó với con người. Bài thơ "Trở bấc" của Lê Nguyên Ngữ xuất hiện trên tạp chí Thời Tập từ năm 1974 đã thể hiện điều này:
"Có phải bấc đã xoay chiều
Vào
những cửa nhà không cánh của quê ta?
Gió
thổi sắt se trên cánh đồng
như
lùng tìm mùi lúa mới
Hương
cốm cũ theo về phảng phất
…
Có
phải gió bấc đang nôn nao nỗi khát thèm
Viền
đường bay áo mới
Ngọn
cỏ vàng đong đưa vô tình
Rung
nỗi bơ vơ lên khung trời xám nhạt bao la
Dưới
cầu ao xưa
Lũ
bèo cũng đang khát thèm
Âm
khua rổ rá
Có
phải gió bấc bây giờ
Đang
ruổi rong bằng vó ngựa bất kham
Và
rượt đuổi mùa đông
Khắp
ngõ hẻm hang cùng
Ôi
quê ta
Kỷ
niệm nào đang run trong mùa đông rét ngọt
Bên
hàng cây ngọn gẫy rất vô tình
Cơn
bấc nào đã lì lợm tìm về
Trên
quê ta, quê ta
Bằng
đôi cánh lạnh lùng
…
Bấc
làm người lạ mặt giữa quê ta".
Lê Nguyên Ngữ đã viết những câu thơ đầy ưu tư, trăn trở. Đến hôm nay đã hơn 30 năm vẫn còn mang tính thời sự:
"...
Đất nước bây giờ nào đã hết khó khăn
đâu
những Bùi Kiệm, Trịnh Hâm
Vẫn còn trong xã hội
Lật trang thơ ta thấy mình có lỗi
Ơn người từ tăm tối ơn ra..."
(Trích bài thơ "Đêm nghe Lục Vân Tiên nghĩ về thầy Đồ Chiểu" - Tuần báo Văn nghệ 1982)
Lê Nguyên Ngữ có những bài thơ đầy cảm xúc, chứa chan tình cảm. "Quán chiều phố huyện" là tuyệt chiêu của Lê Nguyên Ngữ:
"Buổi chiều phố huyện sao thương thế
Một
chút mưa bay, một chút buồn
Áo
nhỏ em về nghiêng chút Huế
Để
bài thơ nón ướt mưa vương!
Ta
khách qua đường, dân tứ xứ
Quán
nghèo kinh tế mái tranh xiêu
Nâng
ly khôn ấm hồn cô lữ
Bởi
mắt em còn lạnh hơn chiều
Vốn
dĩ đời thường cơm áo bạc
Nên
xui thân gái má phai hồng
Một
ra đi đã là một khác
Quê
cũ chừ thương cách mấy sông!
Ấy
bởi đời mình men rượu đắng
Nên
thương trăm họ thích phiêu bồng
Đời
ta bến bãi, em hàng quán
Thiên
hạ là nhà, có biết không?
Ngồi
lại bên chiều kinh tế mới
Quán
nghèo, bếp lửa, khói trung du...
Uống
lên ly rượu mưa hiên tạt
Một
nửa men chiều, một nửa thu"
(1991)
Từ năm 1947, thi sĩ Quang Dũng viết bài thơ "Quán bên đường". 44 năm sau, Lê Nguyên Ngữ viết "Quán chiều phố huyện". Hai tác giả sống vào hai thời đại khác nhau. Bối cảnh xã hội trong hai bài thơ khác nhau. Nhưng, chúng ta đều công nhận độ rung và sức lan tỏa của "Quán bên đường" của Quang Dũng và "Quán chiều phố huyện" của Lê Nguyên Ngữ đều giống nhau. Hai bài thơ đều là những bài thơ hay trong vườn thơ đất nước.
Thế mới biết: Tài hoa và tấm lòng của người viết sẽ tạo được những tác phẩm hay, đẹp trong cuộc đời.
Những hình ảnh hiện thực, trần trụi trong cuộc sống đời thường, Lê Nguyên Ngữ đã đưa vào thơ, lòng người đọc chùng xuống khi đọc thơ anh:
"Em mười lăm tuổi trên đường phố
Tóc
vàng nắng hạ, áo mơ phai
Bàn
tay còn phất thơm mùi vở
Áo
trắng thôi bay giữa chợ đời!
Áo
trắng thôi đành như kỷ niệm
Đồng
tiền - bát gạo vốn song song
Bàn
giao sách vở đàn em nhỏ
Thay
chị mà theo chuyện học hành
Vé
số tròn xoe hàng chữ số
Em
mang hy vọng đến bao người
Trang
vở ngày nào giờ lại ghé
Ghi
đầy trên đấy những niềm vui
Lưu
bút ngày xanh dần cũng xé
Đem
ghi bạc lẻ, tính hoa hồng
Áo
cơm đâu phải trò con trẻ
Mà
dạt đời em... chợ tới sông!
Chiều
nao em bán qua trường cũ
Sân,
lớp ngày xưa luống ngậm ngùi
Trường
học, trường đời chia mấy ngã?
Trăng
rằm thoắt đó đã xa xôi...!
(Bài thơ Trăng rằm thoắt đó - 1989)
"Đâu biết xuân này ta gặp bạn, Phan Thiết buổi về, Tôi về Phan Rí đi xe ngựa, Mưa chiều tháp cổ, Mùa xuân uống rượu với người chăn dê, Giao thừa..." là những bài thơ hay, ghi dấu đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Lê Nguyên Ngữ.
Sau nhà thơ Vũ Anh Khanh, Hoài Khanh... những người đi trước, kể từ năm 1975 đến nay, qua thơ chúng ta nhận thấy: Lê Nguyên Ngữ đã cùng với Nguyễn Bắc Sơn, Huỳnh Hữu Võ, Nguyễn Như Mây và Đỗ Quang Vinh hợp thành "ngũ nhạc - hoa sơn" trên bầu trời thơ Bình Thuận.
Lê
Ngọc Trác
La
Gi, tháng 4/2016