Tết nay báo Tiền Phong đăng bài “Thi sĩ giả – Thi sĩ thật” của Trần Dần viết 50 năm trước mà như vừa mới viết hôm qua. Ông bảo đi hỏi vợ mà xưng là thi sĩ thì người ta hết vía, người ta nhìn từ cái tóc, cái lông mi của anh
Vậy mà suốt đời ông chỉ lao tâm khổ tứ vì thơ. Rồi cũng hỏi được vợ, mà được vợ yêu hết lòng, cùng chịu trăm đường cay cực với chồng cho đến khi ông mất cách nay 13 năm. Nhớ thời ông vào Huế, ba buổi chiều liền ra ngồi một mình nhìn sông Hương và trở về thu được 3 chữ cho Huế là “Nhân Loại Tím”.
Ngày ông mất, tôi vừa từ Huế ra họp ở báo Văn Nghệ, anh Hữu Thỉnh giao luôn cho tôi tổ chức trang báo về ông. Đám tang ông hoa chất trên mộ cao như núị Chúng tôi ở lại thắp nén hương cuối rồi mới cùng gia đình ông trở về. Nhà văn Nguyễn Hữu Đang đi cùng xe với Hữu Thỉnh và tôi, lặng lẽ nuốt nước mắt. Rồi ông chép vào cuốn sổ ghi điện thoại của tôi câu đối: “Nào công, nào tội, rằng nhục, rằng vinh, thương số phận Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi/ Vẫn nước, vẫn nhà, biết thời, biết thế, quý cuộc đời Phạm Lãi, Trương Lương”. Chắc ông cũng đang nghĩ thế về Trần Dần.
Từ đó, hàng năm cứ đến ngày 9 tháng 12 âm lịch là anh em văn nghệ lại đến nhà thắp hương tưởng nhớ Trần Dần và dự đám giỗ ông. Năm ngoái tôi đi vắng nên năm nay dù đang dự họp tổng kết của Trung tâm bản quyền Âm nhạc vẫn cứ chạy về nhà ông.
Bà Khuê và mấy người con thật hiền lành và chu đáo đón khách. Nhiều văn nghệ sĩ tựu về đâỵ Dương Tường, Nguyễn Xuân Khánh, Đỗ Hồng Quân, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Đình Toán, Đinh Quang Tỉnh, Đoàn Tử Huyến, Đà Linh, Nguyễn Anh Tuấn, các nhà báo Lương Bích Ngọc, Hòa Bình, Minh Hà… như đến cùng một lúc. Chúng tôi đến đã thấy hai nhân vật nổi tiếng là giáo sư Nguyễn Huệ Chi và nhà giáo Phạm Toàn vừa thắp hương kính lễ. Nhưng nhiều người bạn của ông không còn nữạ Chúng tôi thấy trống vắng Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Hữu Mai… là những người chí cốt. Nhà thơ Hoàng Cầm thì đang cầm cự với căn bệnh tuổi tác… Tuy vậy lại có thêm những người trẻ. Họ là những thạc sĩ, tiến sĩ vì yêu quý thơ văn của ông nên chọn làm luận án, luận văn mà trở thành thân thiết với gia đình…
Nhớ lúc sinh thời, nhà thơ Trần Dần rất thích ăn quà bánh. Ông ăn chậm như để thưởng thức từng chút ngon cầu kỳ của người kẻ chợ. Ông bảo mắt ăn màu sắc, mũi ăn hương ăn mùi, lưỡi ăn mặn ngọt chua cay, còn cái tai thì ăn âm thanh. Chả thế mà ông thích bữa ăn có bánh đa để được nghe tiếng rau ráu thật vuị Những mâm cỗ giản dị nhưng vẫn có mòn quà ông thích là bánh giò. Người bạn mới của gia đình đã tầm mua được thứ bánh giò gấc màu gạch cua thật độc đáo khiến cho mâm cỗ thêm màu sắc.
Ngoài đời là thế, nhưng trong sáng tạo văn học nghệ thuật, ông là một nhà cách tân không mệt mỏị Từ năm 1946 ông đã cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Văn Tậu lập nhóm Dạ Đài chủ trương thơ tượng trưng nhưng với ý thức vượt lên trên quan niệm sẵn có để làm một cuộc tiếp biến, đưa nhóm mình theo một hướng riêng, đề cao trực giác, vô thức và tiềm thức của con người trong sáng tạo cũng như trong cảm thụ thi cạ
Nhóm vừa ra được tuyên ngôn nghệ thuật thì kháng chiến bùng nổ, ông tham gia quân đội, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và đã viết nên cuốn tiểu thuyết “Người người lớp lớp” nổi tiếng lúc bấy giờ. Ông cũng là một “thủ lĩnh trong bóng tối” của nhóm NVGP đề cao tự do văn nghệ nhằm tìm tòi những sáng tạo mới cho văn học. Nhưng sự đổ vỡ đã dạy ông sự kiên định với chí hướng cách tân hơn nữạ 30 năm lặng lẽ làm thơ, ông đã viết nên “Mùa sạch” và tiểu thuyết thơ “Cổng tỉnh” tạo ảnh hưởng lớn về ngôn ngữ và thi pháp nghệ thuật đối với những nhà thơ Việt Nam hiện đạị
Bên cạnh quá nhiều nhà thơ bậc trung, Trần Dần luôn bộc lộ bản lĩnh thơ của người khai phá. Những “con chữ” của ông luôn cựa quậy cùng sự sống. “Làm thơ là làm chữ, làm con chữ” là một quan niệm được ông tận hưởng và chia sẻ trong cả quá trình sáng tạo lâu dàị Chính vì thế mà thơ ông không lẫn với người khác, và thực tế ông đã tạo ra một từ trường thơ thu hút bao ngườị Ông là một người đầy khát vọng về cuộc sống tốt đẹp. Đó cũng là khát vọng đi tới chân trời nghệ thuật rộng mở. Vì thế mà tâm sự của ông khiến người ta còn mãi mãi suy nghĩ và chia sẻ:
“Tôi khóc những chân trời
không có
người bay
Lại khóc những người bay
không có
chân trời”
Và tài năng thực sự là không thể phụ bạc, cuối cùng ông đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT.
Ngày giỗ ông năm nay, chúng tôi được bà Khuê tặng cuốn hùng ca “Đi! Đây Việt Bắc” của ông lần đầu tiên xuất bản trọn vẹn. Và tôi mở tình cờ gặp câu thơ đầy tin tưởng của ông về người chiến sĩ:
Hãy tin chắc
Rồi ta
Xứng đáng
Một vòng hoa đỏ nhất
Phủ quan tàị
Đó cũng là niềm tin của người thi sĩ – thi sĩ thật – thi sĩ đích thực – Trần Dần.
Hà Nội 23/1/2010
NGƯỜI PHIÊN DỊCH CHÍNH MÌNH
Nhớ Trần Dần
Mưa rơi không cần phiên dịch
em làm sao phiên dịch đời anh
một khối đá câm
tạc thành ngôn ngữ
một đối thoại câm
thốt ra con chữ
anh phiên dịch chính anh người người lớp lớp
anh phiên dịch chân trời đồng nghĩa với người bay
em từ Huế
anh dịch: Nhân loại tím
giờ mồ anh hoa viếng thành núi lớn
hoa không cần phiên dịch phải không anh?
thi sĩ hỡi, bao giờ anh trở lại
cầm trên tay Mùa sạch mở từng trang!
Hà Nội 17.1.1997