Chuyện trước mắt của tôi vẫn là những đợt dân tỵ nạn; không phải tỵ nạn cộng sản mà tỵ nạn chiến tranh. Chiến tranh đã gom con người lại gần nhau, đất đai thênh thang trong rừng núi không còn là những nơi an toàn. Tiếng bom đạn đã vang to hơn tiếng thác đổ. Giòng suối trong xanh thỉnh thoảng có thể thấy giòng máu hồng pha trộn. Tôi đã có lần chứng kiến một bầy kênh kênh bay vòng trên trời và có con sà xuống giữa rừng. Giống chim này tôi chưa hề thấy xuất hiện. Trở lại Yaly với tôi bây giờ coi như là giấc mơ. Kể từ ngày Minh, anh của Như Mai, bị giết vì mìn, đồn điền trà Yaly xem như không còn hoạt động, Yaly đã là hình ảnh của quá khứ. Tôi thèm nghe lại tiếng thác đổ, nước đổ từ trong mây. Tôi thèm mùi hương trà. Nhớ lại từng buổi chiều đứng trong hiên nhà sàng dưới chân thác nhìn lên ngọn thác. Nhớ lại ngày rời Yaly, Như Mai và Minh cùng Bernard tiển tôi lên xe, tôi quay lại nói với Như Mai "Ở giữa rừng mà cũng có biệt ly". Và nay rõ ràng là biệt ly thật, vì tôi không thể lên thăm trở lại, vì tiếng bom đạn đã ác tiếng Yaly ngày đêm thác đổ. Tôi kể chuyện Yaly với Mark như kể lại một huyền thoại.
Con người chạy trốn chiến tranh không phải một lần. Có những ngôi làng vừa xuôi theo giòng sông xuống lẫn tránh vài ba ngày, bom đạn lại kéo đến, phải chạy tiếp. Mỗi lần dừng chân rồi mỗi lần chạy tiếp là một lần máu rơi, người chết, kênh kênh lên tiếng.
Tôi và Mark trên một chuyến bay trực thăng với người trung tá Hoa Kỳ vì hôm qua có khoảng vài trăm người dân ở buôn Hô phải di tản tránh giao tranh. Họ đang tản mát trong rừng. Bên dưới đã có những toán lính đi tìm để gom họ lại. Bọn tôi mang theo y tá thuốc men, dụng cụ cấp cứu và thực phẩm đồ hộp ration C. Hai chiếc trực thăng vừa đáp xuống đã thấy một số dân tập trung trên đồi trống. Người ta đang căng lều vãi. Đói. Dân đói thật tội nghiệp nhất là trẻ con, trẻ còn đang bú nhưng lạc mẹ. Vân Hiệp bận rộn hơn tôi vì đàn bà, sản phụ và trẻ con rất đông. Tôi đã thấy bầy kênh kênh đang lượn trên ngọn cây trong rừng. Tôi nói với Mark có người chết hay bị thương, mình phải vào đó. Y tá mang theo thuốc men cấp cứu cùng một toán lính Mỹ. Mark và tôi không thể ở lại với Vân Hiệp.
Vào rừng mới biết rừng sâu. Nắng trưa gắt ngoài kia trên đồi, vào tới mé rừng đã cảm được hơi mát lạnh của rừng già. Nhìn vào trong chỉ là bóng mát tàng cây. Những tia nắng xuyên qua cành lá chỉ đủ sáng một vùng nhỏ tạo nên những đốm sáng nhấp nhô trong bóng đen. Đoàn người của tôi cứ theo hướng tiếng chim kênh kênh mà đi. Nghe tiếng suối, hy vọng tìm ra người. Người tìm nước để sống nên những người đi rừng có kinh nghiệm nơi nào có suối nơi đó có thú rừng và có người. Con suối này từ đâu tới và chảy về đâu? Viên trung tá lật tấm bảng đồ cầm theo chỉ cho Mark. Tôi nao nao trong lòng khi nhìn thấy con suối là một nhánh phát từ thác Yaly, từ đây ngược về thác độ chừng trên năm cây số. Ngày xưa Minh bị mìn chết cũng theo giòng suối này? Tôi đoán vì chỉ thấy một con suối trên bản đồ.
Những bước dọ dẫm, rừng cây cổ thụ, thân cây trắng ở quanh vùng gần suối làm cho khu rừng bớt u tối. Tôi ngạc nhiên khu rừng thật khoẻ mạnh, cây cổ thụ đứng thẳng tắp chưa bị tàn phá bởi con người và bom đạn. Tôi đứng ngắm và hỏi rừng "Còn đứng yên đây được bao lâu nữa? chiến tranh đang gần kề", tự nhiên tôi cũng xót xa cho rừng như tôi xót xa cho Làng Mơ năm ngoái. Chỉ cần một toán Việt cộng qua đây bị phát hiện là nguyên khu rừng này không còn một cây đứng thẳng vì bom đạn cày bới.
Toán lính Mỹ đi trước đã trở lại với vài người dân bị thương, bị đói. Họ được đặt trên cáng hay dìu đi. Trên một cáng nằm dài một người phụ nữ tóc tai rối bù và hình như có máu khô đọng. Quần áo cô ta tuy rách rưới nhưng tôi nhìn như có vẽ không phải người thiểu số. Cách vấn xà rông khác với người con gái sơn cước. Trong dáng dơ dáy tiều tuỵ người con gái làm cho tôi chú ý vẽ dong dõng cao, cổ tay cổ chân không đeo vòng. Vì áo rách nên lòi một mãng da trắng ở thắc lưng và bên trong xà rông nơi da thắc lưng lộ ra tôi thấy cô có mặc đồ lót. Người thượng không mặc đồ lót. Cô gái thở đều. Mark nghe tim mạch, tôi nắm cổ tay để đếm nhịp tim. Tôi với lấy một chiếc mền y tá mang theo đắp lên người cô gái. Khi tôi vừa cúi xuống để bắt mạch cô gái ngừng rên mắt mở ti hí, môi mấp máy. Tôi cúi sát hơn và rất ngạc nhiên khi cô nói tiếng kinh "Cho em uống nước". Giọng nhỏ nhưng rõ ràng tiếng Bắc. Tôi không còn nghi ngờ gì nhưng không nói với ai kể cả Mark, tôi chỉ nói với Mark cô ta biết tiếng kinh. Tôi lấy bi đông nước mang theo đưa vào miệng cho cô từng hớp. Phần nước còn lại tôi rữa mặt cho cô. Bây giờ trước mắt tôi là cô gái trạc trên hai mươi tuổi. Sau mấy hớp nước cô có vẽ tỉnh táo hơn, đặt mấy ngón tay vào bàn tay tôi, tay kia cô chỉ vào thắc lưng của cô như muốn cho biết trong thắc lưng có gì đó. Tôi theo ngón tay chỉ của cô lôi ra một mãnh giấy đã nhàu "Xin đưa tôi về chiêu hồi". Tôi cẩn thận xếp mãnh giấy lại rồi bỏ vào túi áo của mình. nắm tay cô ta ra dấu bảo an tâm. Sau khi băng bó vết thương ở đầu tôi bảo cô "Thôi ngủ đi". Một vài người chung quanh tôi bận lo săn sóc những người khác không ai để ý gì đến cô ta đang thì thầm với tôi. Cô gái nghe lời nhắm mắt nằm yên. Những tia nắng chiều rọi lên một mãng da trần trên vai cô. Chiều hôm đó chỉ có hai người được tôi thông báo: Vân Hiệp và Mark "Cứ chuyển hết về bệnh viện rồi giải quyết". Tôi giao cho Vân Hiệp săn sóc trong suốt thời gian chờ phương tiện, không hỏi han gì cô ta. Sáng hôm sau tôi nhờ y tá qua mời Vân Hiệp qua ăn sáng, uống cà phê với tôi và Mark ở căn lều vải. Tôi hỏi thăm sức khoẻ. Vân Hiệp nghiêm nét mặt "Anh hỏi thăm sức khoẻ em hay Lê Thị Ngọc Ninh?". Nói xong cười "Cô ta suốt đêm không ngủ tâm sự với em. Người Nam, cha mẹ ra Bắc năm 1954, lấy nhau sinh Ninh. Hai mươi hai tuổi đang học y khoa Hà nội. Không thích chế độ, tìm cách tình nguyện vào Nam để thoát. Muốn tìm gặp ông bà nội sau này". Trước khi rời tôi Vân Hiệp nói thêm "Cứ hỏi thăm anh và hỏi tên. Gởi lời cám ơn". Tôi dặn Vân Hiệp "Cứ để nguyên tình trạng của Ngọc Ninh như vậy, đừng săn sóc và nói chuyện nhiều, để về bệnh viện sẽ tính".
Vân Hiệp đi rồi tôi bước ra khỏi lều đứng nhìn về khu rừng và mong rằng nó vẫn mạnh mẽ vươn cao.
Chân Tính Hải
(Vòng Sân Cát)