Một bằng chứng bất công của Thượng Đế hay, kết quả sau cùng của một hiến tặng cuộc đời cho văn học, nghệ thuật: V Hối
Nếu phải trưng dẫn một bằng chứng về sự bất công của Thượng Đế, hiểu theo nghĩa ngài đã lãng quên biết bao con người, để dành quá nhiều vinh quang, chói lọi cho một người - thì, Vũ Hối, là một bằng chứng cụ thể, tiêu biểu.
Nói thế, không có nghĩa khi Thượng Đế chọn họ Vũ làm “Kẻ Thừa Sai Văn Học Nghệ Thuật” cho cuộc đời, cho con người, thì, họ Vũ đã không phải trả bất cứ một giá nào cho những chói lòa ông nhận được. Mà, trái lại.
Vâng! Trái lại. Họ Vũ đã ném hết thân, tâm, hiến tặng trọn vẹn cuộc đời mình cho cuộc trường chinh văn học và nghệ thuật lao lung, dằn, xóc kia, để có ngày hôm nay.
Trước nhất, tài năng và những vinh quang mà người đàn ông mang tên Vũ Hối, bị nhìn ngắm như một “bằng chứng cụ thể” về sự ưu ái đặc biệt từ Thượng Đế, sinh ngày 22 tháng 11 năm 1932 tại Quảng Nam.
Ông là bào đệ của nhà văn kiêm giáo sư Vũ Ký.
Năm 1963, ông đoạt giải khôi nguyên Hội Họa Quốc Tế tại Hoa Kỳ. Tháng 11 năm 1994, trong Đại Hội Mỹ Thuật Thế Giới, tổ chức tại thành phố Atlanta, Georgia, ông được vinh danh là Họa Sĩ Sáng Tạo Nghệ Thuật, bằng vào công trình sáng lập Trường phái Luân Vũ Họa/Paintings in Motion và Trường phái “Thư Họa/Handwriting-Painting.”
Trước đấy, tự thập niên 50, tên tuổi của ông đã được văn giới biết tới qua những thi phẩm như “Mùa Giao Cảm,” xuất bản năm 1958; “Vần Thơ Màu Trắng,” được phiên dịch qua Pháp ngữ và Anh ngữ; “Hợp Tấu Thi Tuyển,” nhiều tác giả, do nhà Nhân Loại xuất bản năm 1969, cùng một số thi phẩm khác, viết sau biến cố tháng 4, 1975.
Cũng từ thập niên 50, hay trên nửa thế kỷ, thơ của Vũ Hối đã được hai nhạc sĩ tiền chiến, nổi tiếng như cố nhạc sĩ Lê Thương, Đức Quỳnh phổ nhạc. Đó là các ca khúc mang tên “Lời Ru Của Mẹ” và, “Bức Tranh Xứ Huế.”
Gần nhất, cơ sở Nhật Trường Productions cũng mới phát hành một dĩa nhạc đặc biệt, mang tên “Vũ Hối, và Thơ Nhạc Trong Tranh” với 7 ca khúc phổ từ thơ họ Vũ bởi những nhạc sĩ nổi tiếng từ thời tiền chiến, cũng như hiện tại. Đó là nhạc sĩ Đức Quỳnh, Viễn Châu, Song Ngọc, Trần Thiện Thanh, Nguyễn Hữu Tân, và, ba thi phẩm được diễn ngâm bởi Thanh Toàn, Hồng Vân, Hà Phương.
Ngay ở bộ môn nhiếp ảnh nghệ thuật, Vũ Hối cũng là hội viên chính thức của hai hội ảnh nổi tiếng thế giới là hội PSA và ICS...
Ở mặt nào, từ hội họa qua tới thi ca, từ Thư Họa, Luân Vũ Họa, qua tới bộ môn nhiếp ảnh nghệ thuật, Vũ Hối cũng cho thấy khả năng sáng tạo của ông, được tẩy tới cực cao nhất của mầu sắc, chữ nghĩa và ánh sáng đường nét.
Khi những kênh, mạch nghệ thuật đi ra từ trái tim và tài năng Vũ Hối, tới điểm cực đại, dường chúng đã nhập dòng - đã là một - đã một khoảng cách, một lằn ranh phân biệt nào giữa các bộ môn.
Nhà thơ Hà Huyền Chi trong một bài viết về Vũ Hối, đã rất tinh tế khi nhấn mạnh: “Chữ và thơ (Vũ Hối) tươm mật trên từng tuyến màu giao hưởng, làm thành một cõi riêng ở tranh-thơ Vũ Hối.”
“Nét cọ khoác cho thơ chiếc áo gấm thất thể làm sinh động hồn chữ, khiến bùng chuyển men thơ. Thi trung hữu họa mà cũng là họa tàng thi tứ. 'Người Họa' và 'Người Thơ' nhập điệu để cùng bay bổng trong tình tự văn chương. Thư Họa (viết mà như họa) - một khai phá chấn động mở ra chân trời mới: tranh-thơ.”
Ở một đoạn khác, vào sâu hơn trường phái “thư họa” mang tên Vũ Hối, Nhà thơ Hà Huyền Chi ghi nhận:
“‘Chữ’ không thể vẽ lại. Dầu muốn! Mỗi chữ đã là một bức họa, một biểu tỏ độc đáo đã một lần soi mặt trên dòng thưởng ngoạn. Một lần!
“Vũ Hối, người thứ nhất đã làm nổi bật đặc thù chữ Quốc Ngữ.
“Rồi ra nhân loại sẽ phải ghen với chúng ta về những dấu có trăng liềm, câu liêm, có chim bay, có giọt sương long lanh, có hạt lệ ngậm ngùi, có mưa rơi và lá rụng...
“Ta có quyền hãnh diện vì chữ Việt qua nét thư họa có một không hai của Vũ Tiên Sinh đã được mọi người thán phục...”
Tới hôm nay, có dễ người ta khó có thể kể hết những ghi nhận của văn giới, về đời thơ Vũ Hối, sau hơn nửa thế kỷ hưng phấn, suy trầm theo mệnh nước... Tuy nhiên, chỉ với một cảm nhận chân thực, đầy cảm tính sau đây, trích từ một bài viết của nhà văn Trần Hoài Thư, sau khi tác giả này, được nghe chính họ Vũ, diễn đọc bài thơ “Em Là Pho Tượng” của mình:
“Anh Vũ Hối, người họa sĩ, người thơ, người tù, người lưu vong, đứng yên, cứ đọc, cứ dừng lại để nhắm mắt, nuốt thêm khối gì nghèn nghẹn và tiếp tục đọc. Một người nghệ sĩ là thế. Tôi xin anh tha lỗi vì tôi chưa bao giờ thuộc thơ anh, nhưng tôi biết kể từ đây, tôi sẽ mang hoài hình ảnh một người thơ gánh trên vai chiếc thập tự giá.
“Chỉ có tôi, thì không xứng đáng gì để làm mấy bài thơ vớ vẩn.
“Thơ tôi đã đọc trên bục. Tô đứng dậy quay về phía người vỗ tay, cúi đầu chào. Nhưng tôi nghĩ là thơ tôi sẽ phải vứt hết vào sọt rác, nếu không diễn tả hết đôi mắt nai ngoan của em bé đang tìm về dưới pho tượng để học bài đêm nay.”
Vừa qua là nhận định của những người cầm bút nổi tiếng tự hôm qua và hôm nay. Nhưng trước một Vũ Hối, một cá nhân tượng trưng cho sự nhập dòng, cùng lúc nhiều chiều kích, nhiều kênh, mạch văn học nghệ thuật khác biệt, mỗi nhận định của một tác giả, dù sâu sắc, tinh tế tới đâu, cũng chỉ có thể chạm dụng tới một hoặc hai bản sắc của con người phức-trùng-bản-ngã này.
Vậy, tại sao chúng ta không thử lắng nghe họ Vũ nói về chính mình. Dù cho ông cũng chỉ đề cập tới vài kênh, mạch thẳm sâu của tâm hồn và chiều, kích tài năng ông...
Nhưng, chút ít, nó cũng là tiếng nói chính thức, ngọn lửa tinh tuyền, cháy lên từ một thân, tâm đã ăn ở liên lụy trên nửa thế kỷ với văn học và nghệ thuật Việt Nam, như sự ăn ở, hay tấm lòng thủy chung của một con người, sinh ra và chọn ở, cuối cùng, với khí thiêng quê hương, đất nước.
Ở phút nói thật - hiểu theo nghĩa nói với chính mình, con người được Thượng Đế chọn, như một biểu tượng vinh quang nhiều mặt - (dĩ nhiên, vinh quang kia, chói lòa nọ, sẽ không thể đến với họ Vũ, nếu họ Vũ ném cả thân, tâm, hiến tặng trọn cuộc đời mình cho văn học nghệ thuật) đã tâm sự như sau:
“Báo chí, các nhà phê bình nghệ thuật, các đài truyền hình thường vẫn hỏi tôi (...) là tôi vẽ theo đường lối nào, họa phái nào, công thức nào? Tôi xin thưa là không theo một công thức nào cả, tôi vẽ tùy theo trực giác sáng tạo của nhà nghệ sĩ cảm thông với đề tài bằng một tâm thức thần cảm đột xuất (illumination spontanée) mà thôi. Và riêng tôi, quan niệm vẽ tranh mà còn chăm chú tuân theo họa phái nào, trường phái nào, công thức này nọ thì đâu còn là nghệ thuật sáng tạo, tự do sáng tạo. Đó chỉ là máy móc, vô sắc, vô thức của sinh vật vô cảm xúc.
“Cũng như tôi làm thơ vậy, chữ tôi viết vậy, nó trào ra như nguồn suối của tâm tư, dồn nén sau bao áp lực ẩn ức vì tâm trí, nghệ thuật bị ngục tù trong chế độ vô nhân từ nhiều năm, tháng rã rời...”