Tôi không biết lý do gì, nhiều người cho rằng nhà thơ Nguyên Sa không thuộc nhóm Sáng Tạo! Quả quyết này chỉ được giải tỏa khi họ gặp nhà văn Mai Thảo và, nghe chính tác giả “Đêm Giã Từ Hà Nội” xác nhận rằng:
“Không. Nguyên Sa có mặt từ những ngày đầu tiên, với anh em Sáng Tạo.”
Những ai có cơ hội đọc “Nguyên Sa, Tác Giả Và Tác Phẩm,” trong đó có bài viết của Mai Thảo thì không có nghi vấn đó:
“Tờ Người Việt đình bản. Tờ Sáng Tạo thay thế. Vào nghề gõ đầu trẻ, vẫn cái mũ casque trắng, vẫn giáo viên trường làng, vẫn Khái Hưng, Nguyên Sa khác với Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn (văn) Trung, Nguyễn Khắc Hoạch không thường xuyên, đã cùng với giao tình thân thiết mau chóng, trở thành người viết chủ lực của Sáng Tạo suốt hai năm đầu của diễn đàn này. Đó là thời kỳ của những tiểu luận văn học, triết học đầy không khí Sorbone và những bài thơ tự do loạt đầu, làm từ trở về Việt Nam của Nguyên Sa gần như không số nào là không có đăng trên tờ Sáng Tạo…” (Mai Thảo, “Màu lụa Hà Đông trong thơ Nguyên Sa,” sđd. Tr. 59.)
Mặt khác, trong Hồi Ký của mình, nhà thơ Nguyên Sa cũng thuật rõ liên hệ giữa ông và, tạp chí Sáng Tạo, ngay khi tạp chí này ở giai đoạn chuẩn bị:
“Trước khi Sáng Tạo chào đời, Mai Thảo và tôi vẫn cùng nhau đi chơi lung tung ở Sài Gòn. Khi Sáng Tạo trong thời kỳ chuẩn bị, tôi nhiệt tình bàn tính với Mai Thảo. Phải ra chứ. Làm chứ sợ gì. Mai Thảo chở tôi trên chiếc xe Austin đi chơi lung tung, tôi lái chiếc xe hào hứng tới rủ Nguyễn Văn Trung về viết cho Sáng Tạo, rủ cả linh mục Trần Văn Hiến Minh cùng đi chuyến xe…” (Sđd. Tr. 191.)
Nhưng điều gì đã xẩy ra giữa Nguyên Sa và Sáng Tạo, khiến nhà văn Mai Thảo không che dấu bùi ngùi trước sự kiện tác giả “Thơ Nguyên Sa” chấm dứt cộng tác với Sáng Tạo qua đoạn viết sau đây:
“… Sau hai năm đầu kể từ hồi hương và với tờ Sáng Tạo, Nguyên Sa không còn gần tôi nữa. Con chim đã vùn vụt cất cánh bay tới những phần đất khác. Đời sống trăm dòng và nhà thơ kiêm giáo sư triết, người giám đốc trường, người chủ nhiệm mới đã ở trên cái trăm dòng nhiều mặt ấy. Khiến chẳng những tôi đã thấy xa còn như thấy mất hẳn Nguyên Sa trước tầm mắt nhiều khoảng thời gian. Ở những khuất mặt này, tấm lòng đôi lúc cũng xa và đã gây nên một vài ngộ nhận đáng tiếc không do nơi tôi và cũng chẳng nên thuật lại làm gì…” (Sđd. Tr. 61, 62.)
Người đứng đầu tạp chí Sáng Tạo đã rất đỗi thành thật khi nói, “ngộ nhận” không do nơi ông. Hơn thế, thoạt đầu, chính ông cũng không biết nguyên nhân sâu xa của điều mà ông gọi là “ngộ nhận.” Một “ngộ nhận” đáng tiếc (rất đáng tiếc,) theo tôi.
Sau này, đôi lần, trong chỗ riêng tư, Mai Thảo nói rõ đó là sự “ngộ nhận” giữa Thanh Tâm Tuyền và Nguyên Sa. Hai nhà thơ mà ông từng coi là “hai tiếng thơ xung xích, tiền phong,” trong bài ông viết giới thiệu thi phẩm “Thơ Nguyên Sa, Tập Hai”:
“Trở về nước sau nhiều năm du học ở Âu Châu, bấy giờ là cuối thập niên 50, ông đã cùng với Thanh Tâm Tuyền, dẫu mỗi người từ một vị thế khác biệt, là hai tiếng thơ xung kích, tiền phong vượt qua giòng thơ tiền chiến như một biên thùy cũ của thơ và đưa thơ tới những biên thùy mới. Bằng làm đầy cho thơ một định nghĩa và một chứa đựng mới. Bằng phá vỡ hết mọi ước lệ, mọi câu thúc vẫn còn với giòng thơ tiền chiến…” (Sđd. Tr. 67, 68.)
Nhưng, do đâu mà hai tác giả kia, lại có sự “đối chọi” đáng tiếc ấy?
Muốn hiểu ngọn nguồn, có dễ chúng ta phải đi ngược lại những năm đầu ở giữa thập niên (19)50, khi tác giả “Áo Lụa Hà Đông” trả lời cuộc phỏng vấn của nhà báo Hồ Nam (1) vào đầu năm 1956 ở Sài Gòn. Nguyên Sa viết:
“… Chúng tôi không có sự xa cách của đối chọi. Dù vậy, có một khoảng cách. Khoảng cách của ngộ nhận. Một trái núi hiểu lầm đã vô tình được dựng lên giữa Nguyên Sa và các bạn văn trong Sáng Tạo, trông thì chỉ như giả sơn, mà vượt qua không được. Hạnh phúc và bất hạnh của tôi trong những ngày tháng đầu tiên về nước, đầu năm 1956 là được Hồ Nam phỏng vấn cho một chương trình văn nghệ gì đó trên đài phát thanh. Từ Paris từ những cuộc thảo luận thâu đêm canh thức, từ không khí hừng hực văn chương và triết học của tả ngạn sông Seine, đúng như Thanh Tâm Tuyền đã viết Nguyên Sa mang về cùng với thơ, không khí tự do mà chúng ta mong nhớ. Nhưng người làm thơ từ Paris trở về là con trừu non trước những câu hỏi cáo già của Hồ Nam. Tôi nói. Hồ Nam hỏi và tôi trả lời. Tôi nói về luật bằng trắc, về vai trò của âm thanh trong thi ca. Tôi không biết dừng lại ở những vấn đề tổng quát, không biết phân biệt việc và người. Tôi không biết tả ngạn sông Seine và Sài Gòn trong văn chương còn phủ những nho phong. Hồ Nam thọc sâu những mũi kích. Tôi nói về thơ Thanh Tâm Tuyền. Tôi nói về những người chỉ trích thơ tự do. Những lời nói trong bối cảnh của một Paris hiện ra bằng hữu, hiện ra trong lương tâm trí thức, trong khuôn khổ văn học miền Nam thời đó được ngắm nhìn như những lời công kích không thân hữu. Tôi không nhận ra ngay những sự nhìn ngắm nghiêm khắc này. Dần dần tôi mới nhận ra. Mai Thảo những lần khác biệt bất ngờ nói với tôi Thanh Tâm Tuyền quý anh lắm. Thanh Tâm Tuyền viết những lời chào mừng Nguyên Sa tuyệt đẹp trên trên tờ tuần báo văn nghệ (Người Việt). Tôi cũng không hiểu rõ vì sao giữa những câu chuyện có những xen kẽ bất ngờ. Không giống như trách cứ. Có một chút vẻ đáng tiếc nuối điều gì. Nguyên Sa đã đi quá xa trong ngôn ngữ? Phải chi không có chuyện đó. Dần dần khuôn mặt vui tươi của Hồ Nam hiện ra rõ nét. Hồ Nam hỏi lại tôi về những câu trả lời. Tôi giữ lấy niềm tin được phát biểu…” (Hồi ký Nguyên Sa, sđd. Tr. 188, 189.)
Thời gian đó, những người tình cờ nghe được cuộc nói chuyện về thơ tự do giữa Hồ Nam và Nguyên Sa trên đài phát thanh cho biết, đại ý, Nguyên Sa cho rằng Thanh Tâm Tuyền không biết làm thơ tự do. “Thơ tự do không phải thế.” Đã vậy, khi bị Hồ Nam “thọc sâu những mũi kích,” nhà thơ Nguyên Sa thay vì sớm nhận ra cái bẫy xập đã giương ra thì, ông lại xác nhận nhiều lần phát biểu của mình. Như khẳng định trách nhiệm của ông về những gì đã nói. Phần nhà báo Hồ Nam, không ai nghĩ ông có ác ý hay thiên kiến gì. Chẳng qua, do nhậy bén nghề nghiệp, khi gặp được “khối thuốc nổ,” nhà báo lập tức tìm cách nâng sức “tàn phá” lên tới mức cao nhất, có thể có được!
Sự đối chọi hay ngộ nhận giữa hai nhà thơ trên, lẽ ra, rồi cũng sẽ nhạt phai với thời gian. Nhưng tiếc thay, sau đó, trên mặt báo Sáng Tạo, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền cho phổ biến một bản lên tiếng, giống như tuyên ngôn của những người làm thơ tự do thuở đó. Rất nhiều nhà thơ, kể cả những tác giả không có mặt trên diễn đàn Sáng Tạo tự những số đầu, họ là những tên tuổi thuộc vòng ngoài, chỉ cộng tác với Sáng Tạo sau này, cũng được nêu tên. Trong khi Nguyên Sa, hiện diện từ thời kỳ chuẩn bị, theo ghi nhận của Mai Thảo, còn là thành phần chủ lực, thì lại không có tên. Sinh thời, nhà thơ Nguyên Sa cho biết:
“Tôi hiểu rằng tôi đã bị anh em gạt ra khỏi Sáng Tạo. Nên, tôi đã lặng lẽ rút lui. Không một lời, ngay cả với Mai Thảo!”
“Đối chọi” hay “ngộ nhận” giữa hai tác giả này, lên tới “đỉnh điểm” vào năm 1971, xuyên qua sự kiện nhà thơ Trần Dạ Từ được trao tặng giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn Thơ, với thi phẩm “Thuở làm thơ yêu em.” Mà cả Nguyên Sa lẫn Thanh Tâm Tuyền cùng trong ban giám khảo.
“Đối chọi” hay “ngộ nhận” đáng tiếc ấy, trở thành công khai sau đó. Khi nhà báo Lê Phương Chi(2) với một bài viết dài 2 kỳ trên tuần Báo Đời (của nhà văn Chu Tử,) các số 127 và 128, đề ngày 13 và 20 Tháng Tư năm 1972, (và trên Nguyệt san Bách Khoa số 369, đề ngày 15 Tháng Năm, 1972.) Họ Lê tìm hiểu, phỏng vấn cả 5 giám khảo… (3) Qua những phát biểu của các nhân vật trong cuộc, người ta thấy sự đối chọi giữa Thanh Tâm Tuyền và Nguyên Sa, đã trở thành quyết liệt!
Để tạm kết, theo ghi nhận riêng của tôi, trong sinh hoạt 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, còn khá nhiều những “ngộ nhận” đáng tiếc khác. Tuy nhiên, đó không phải là mục tiêu của loạt bài này.
Du Tử Lê
__________
Chú thích:
(1) Nhà báo Hồ nam hiện cư ngụ tại Sài Gòn.
(2) Nhà báo Lê Phương Chi hiện ở Sài Gòn.
(3) Có thể tìm đọc thêm Nguyễn Đức (Lập,) tác giả bài “Năm mới chuyện cũ: Giải thưởng văn hóa nghệ thuật toàn quốc năm 1971.” Tạp chí Văn Học (Cali.) Xuân Nhâm Thân, số 70 &71. (Tư liệu của nhà thơ Thành Tôn, Orange County.)