Đặng Phú Phong là tên tuổi quen thuộc trong sinh hoạt VHNT hải ngoại, từ nhiều chục năm qua. Người đọc chú ý nhiều tới những bài viết về hội họa, phỏng vấn văn, nghệ sĩ, của ông.
Nhưng, hai ngọn núi mà họ Đặng không ngừng đau đáu thao thiết chinh phục, lại là thi ca và, văn xuôi.
Đặng
Phú Phong chọn “Nỗi buồn Tháng Bảy,” 2014, để dựng thêm một cột mốc mới, cho cuộc trường chinh chữ, nghĩa của mình. Cột mốc đánh dấu lộ trình lao tác tinh thần của họ Đặng, lần này là thi ca và truyện cực ngắn.
Tôi không muốn che giấu rằng, cánh rừng thi ca Đặng Phú Phong, tựa đề “Nỗi buồn Tháng Bảy,” đã mang lại cho tôi, nhiều câu thơ lạ. Những câu thơ, tự thân có nhiều âm vọng riêng; trước đây hiếm thấy ở
nơi ông:
“góc phố bỗng dưng như góc núi
chút mây rẽ xuống tóc ai xinh”
Hay, những âm vọng như tiếng hắt, dội những lỡ làng nhân thế:
“tránh dấu hỏi lại rơi vào dấu ngã
con chữ buồn. lạnh cả một vầng trăng”
Hoặc, chói, gắt những cảm nghiệm tử sinh, chấp chới âm, dương giữa đôi bờ hư/thực:
“tro người tốt đất, xanh rừng
bỏ đi quanh quẩn dở chừng chiêm bao.”
Tôi không muốn che giấu rằng, cánh rừng thi ca Đặng Phú Phong, tựa đề “Nỗi buồn tháng Bảy,” đã mang lại cho tôi, nhiều bất ngờ, lớn. Khi họ Đặng sử dụng dấu chấm như những nhát dao “chém” giữa những danh từ, động từ hay, tĩnh từ kép. Như:
“đêm với ngày mờ nhạt dấu chia. phân”
Dấu chấm họ Đặng “chém” giữa động từ kép “chia phân” là một trong nỗ lực đổi mới, không chỉ ngắt nhịp đi của thơ, hầu làm sáng lên mối tương quan của những từ khép - - Vốn là một trong vài nét đặc thù - - Thực chứng tính phong phú của ngôn ngữ Việt... (Mà) “nhát chém” này, còn đẩy cảm-thức biệt, lìa của khí hậu câu thơ, lên tầng đau đớn, khác.
Chỉ cần một chút chú ý nhỏ, người đọc sẽ nhận được những dấu chấm (cố tình), rất nhiều, trong thơ hôm nay, của Đặng Phú Phong.
Thí dụ:
- “quên hay nhớ. Sài Gòn. em vẫn thế”
- “mưa ở. mưa về. tâm bất định”
- “em. đi. về. vàng hắt giọt sương khuya”
- “đêm. nhìn. ngắm. mảnh đời lỗ chỗ”..
Trái ngược với văn xuôi, chỉ trong một câu thơ Đặng Phú Phong, người đọc có thể thấy nhiều hơn một mệnh đề độc lập.
- Tại sao?
Vì
căn bản thi ca vốn có văn phạm, riêng. Nên, người đọc tưởng chừng như những mệnh đề độc lập này, đứt lìa hay chênh vênh giữa ngữ cảnh câu thơ.
Nhưng, hiểu một cách nào đó, (thì), những mệnh đề độc lập ấy, vẫn nằm trong một trạng-huống-thi-ca - - Do tính liên lập, tương thông của dòng chảy.
(Tựa chúng ta không thể tách bạch những bộ phận, cơ quan thuộc cơ thể chúng ta như tay, chân...thành những ốc đảo phân ly. Bởi, cách gì, chúng vẫn có chung một cội, gốc).
Tôi cho đây là một lên đường can đảm của họ Đặng.
Tôi cũng không muốn che giấu rằng, cánh rừng thi ca Đặng Phú Phong, tựa đề “Nỗi buồn Tháng Bảy,” đã đem lại cho tôi, nhiều câu thơ lạ. Những câu thơ mà,
không phải người làm thơ nào cũng dễ có được:
“không gian đọng thời gian
phật mênh mông nụ cười
em lung linh điệu múa”
Hoặc:
“đôi bàn tay. vỗ lệch bàn tay”
Hoặc nữa:
“đường cười với dấu chân”...
Nếu lộ trình thi ca Đặng Phú Phong là những nỗ lực hay tham vọng vượt qua, xóa bỏ chính mình, để hình thành cho cõi-giới thi ca Đặng Phú Phong một chân dung khác - - (Thì) “độ cồn” ẩn dụ trong “Truyện cực ngắn” của Đặng Phú Phong lại khiến người đọc, chỉ “nhấp môi” thôi, cũng đủ thấy cháy bỏng ruột, gan niềm xót xa xấp, ngửa, chao chát đời thường. Điển hình là những mẩu truyện như “Con chim của Bác Sĩ Tom,” “Đầu cọp, đuôi heo,” “Quên” hay “Đất”:
“Hắn sinh trưởng trong một gia đình nông dân từ bao nhiêu đời. Cha hắn là một người nông dân lam lũ, chất phác, thường nói với hắn: ‘Sống là nhờ đất.’ Hắn không cãi nhưng luôn luôn tâm niệm rằng phải gắng học hành, đỗ đạt để làm việc gì đấy mà không phải nhờ đến đất. Hắn toại nguyện. Trở thành thầy dạy học, hắn thong dong nơi tỉnh thành, tưởng yên một đời công chức.
“Không ngờ đến năm 1975, miền Bắc chiếm miền Nam, hắn di tản sang Mỹ. Không thể học hành trở lại vì nặng gánh gia đình, hắn xin làm các hãng xưởng. Công việc quá bấp bênh vì thường bị lay off nên hắn rất chán nản. Đang cố tìm một công việc lâu dài cho mình thì có người rủ hợp tác mua đất làm nông trại. “Mừng, bắt tay thực hành ngay.”
“Hôm xới mảnh đất đầu tiên để trồng rau muống, hắn chợt sững sờ, nhớ lại câu nói của cha hắn: ‘Sống là nhờ đất.’”
Trong đôi truyện cực ngắn khác, họ Đặng cũng ném người đọc vào không khí “liêu trai” rất gần với Bồ Tùng Linh. Tựa câu hỏi muôn thuở:
“Thực và mộng, cảnh đời nào đáng sống? Hay đối tượng của kiếp người là gì? ” Là những câu hỏi kèm câu trả lời qua cái nhìn đôi khi táo tợn, ráo hoảnh của Đặng Phú Phong; qua những mẩu truyện như “Trả thù” hay “Nguyễn và Kiều.”
Ở dạng văn xuôi rất gần với thi ca này, Đặng Phú Phong cũng cho người đọc những nhân cách hóa sâu sắc qua các truyện “Một buổi chiều bình thường” hoặc, “Hai quả núi.”
Lại nữa, trong cõi-giới truyện cực ngắn của họ Đặng, còn có những tiểu truyện cùng lúc mở ra nhiều cánh cửa. Mỗi cánh cửa dẫn vào một ngôi nhà, tùy theo cảm-thức từng cá nhân mà, người đọc sẽ gặp được điều mình tiên cảm. Như tiểu truyện “Ba người,” “Trần Thi sĩ”:
Đêm trăng yên ắng vô cùng. Con sâu Hoàng Khuyển của Vương An Thạch trở mình hút mật. Và chờ đợi ngày trở lại của Tô Đông Pha. Thi Sĩ T.V. L. đến bên bụi hoa khóc ngất. Những cái bướu trong cánh tay của Lệ lục cục xẻ da , lăn đùng đến gốc hoa rồi tự vỡ vụn, bón phân cho bụi hoa. Các bông hoa vụt trở nên tươi tốt lạ thường. Mật ngọt tuôn trào lai láng. Những con Hoàng Khuyển trong phút chốc lớn như thổi, to bằng con khủng long, chụp lấy Trần thi sĩ ăn tươi nuốt sống.
“Người thời sau vừa khóc cũng vừa mừng.”
Tới đây, tôi nghĩ đã quá đủ, để tôi phải nói lời chúc mừng nhà thơ/nhà văn Đặng Phú Phong. Ông không chỉ cắm một dấu mốc mới, trong cuộc trường chinh chữ, nghĩa của riêng mình. (Mà), bên cạnh đó, ông còn để lại nhiều bóng cây...
Những bóng cây chữ, nghĩa, tôi hy vọng, ở được với mai sau.
(Garden Grove, Tháng Tám, 2014)