Lake City,Georgia, Chủ Nhật, 31 tháng 5 - 09: Chẳng thể nhớ đã bao lâu, tôi không có được cho mình, một buổi sáng yên tĩnh, thanh nhàn thân / tâm như sáng nay.
Buổi sáng ngửa mặt hứng những lượng nắng mật ong, theo trái thông, rớt khô sân sau ngôi nhà Xuyên Trà. Gió mang theo mùi lá mục, hơi mốc, ẩm của những con suối bách bộ dưới rừng dương bên kia lộ. Ngôi thánh đường của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Atlanta, (hàng xóm của bạn tôi,) đóng cửa. Nguyên khu nhà đầu dốc, tuồng cũng êm ả trôi theo tiếng động cơ rù rì của đôi ba chiếc xe, đổ dốc về phi trường...
Trong lúc chờ Trần Quốc Công, chúng tôi cùng hút thuốc. Tôi nói với Xuyên Trà về niềm hạnh phúc, mỗi ngày được sống thêm. Thấy cây, cỏ, hớn hở. Thấy nắng, gió, khoan thai. Thấy thiên nhiên, căng bầu vú, cho vạn vật bú, mớn. Thấy bằng hữu mất, còn, cũ, mới, vẫn lênh đênh xao xuyến tìm nhau.
Tôi nói với Xuyên Trà, chúng ta thật may mắn, khi còn đủ minh mẫn để nhớ không riêng người quen, gồm luôn kẻ lạ, mà, chúng ta còn nhớ một cách thân thiết, cận kề xiết bao, với những người đã mất.
Tôi nói với Xuyên Trà, anh em quanh ta, thưa dần. Nhưng, ở thế giới bên kia, quây quần, ấm áp làm sao, số đông bằng hữu. Xuyên Trà đồng ý với tôi: Đời sống không chỉ hiện tại. Đời sống còn cả quá khứ. Nhờ những người đã chết mà, người sống thấy được đời mình, thêm phần đáng sống.
Tơi muốn kể cho Xuyên Trà nghe, những ngày cuối cùng của tác giả trường ca “Hội trùng dương”, Hoài Bắc / Phạm Đình Chương. Ông bảo, nhiều người khuyên ông, không nên mổ. Không nên cho dao kéo đụng vào cơ thể khi bệnh ung thư đã ở giai đoạn thứ ba. Nhưng tác giả “Ly rượu mừng” thở ra:
“…Kệ. Trước sau gì cũng chết. Sống được tới giờ này, cũng đã quá đủ rồi!”
Tôi muốn kể Xuyên Trà nghe, những ngày cuối cùng của tác giả “Ta thấy hình những miếu đền”, Mai Thảo. Những giấy phút cuối đời, ở bệnh viện Garden Grove, ông chỉ đòi cho ông, ly café sữa đá và, một điếu thuốc lá!…
Tôi muốn kể Xuyên Trà nghe, những cú điện thoại cuối, chót từ bệnh viện của tác giả “Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm”, Nguyên Sa. Ông kể tôi nghe, cuối cùng, ông đã quyết định “trở lại đạo” - Những bài thơ trên giường bệnh – (Và,) sự hài lòng, từ những ngày đầu tỵ nạn quê người, chúng tôi đã có nhiều cơ hội gặp gỡ.
Tôi muốn nói với Xuyên Trà, điều tôi chú ý, điều tôi trân trọng, không phải là sự kiện tác giả “Áo lụa Hà Đông” trở lại đạo mà, sự kiện ông đã ăn ở với thi ca, tận cùng hơi thở, cuối. Tôi nghe và, ghi nhớ lời ông, còn như một nhắn nhủ…
Tôi muốn kể Xuyên Trà nghe, vài tháng trước khi bất ngờ đi khuất, Ngọc Dũng, người hoạ sĩ lớn (với tôi,) từ nhân cách tới tài năng, đã có với chúng tôi một buổi trưa ngồi bệt trên cỏ, chung quanh ngôi mộ tác giả “Căn nhà vùng nước mặn,” trong vườn Vĩnh Cửu, ở thành phố Westminster. Ông đốt cho Mai Thảo, nén hương và, điếu thuốc lá. Ông nói chuyện với bạn ông, như thể hai người đang ngồi với nhau trong căn phòng phía sau nhà hàng Song Long:
“…Tụi tao ghé thăm mày. Mai tao và Lệ lại phải về lại Virginia. Cứ nằm yên đấy. Ít lâu nữa, tao sẽ lại thăm mày…”
Tôi muốn nói với Xuyên Trà, tôi hiểu câu Ngọc Dũng nói với Mai Thảo, chỉ có nghĩa, mai mốt, khi ông về Ca Li, tôi sẽ lại là người chở Ngọc Dũng, đi thăm Mai Thảo. Tuyệt nhiên, chúng tôi (luôn cả T., Từ Công Phụng và Đoàn Duy Hiệp,) không hề nghĩ, dù chỉ một thoáng: Vài tháng sau, Ngọc Dũng, thành viên sáng lập Sáng Tạo, đã chọn gặp lại bạn, theo cách của ông.
Buổi sáng Atlanta, cùng với gió mang theo mùi lá mục, hơi mốc, ẩm của những con suối bách bộ dưới rừng dương bên kia lộ… từ nơi vườn sau ngôi nhà Xuyên Trà ở Lake City, tôi biết tôi còn nhiều điều để kể…Thí dụ, cuộc đối thoại cuối cùng giữa tôi và Sĩ Phú, ít tuần, trước khi “Tiếng hát đằm thắm, ở được với mai sau,” sẽ “đi xa.” Đó là những dặn dò bất ngờ:
“Bác sĩ bảo, tao chỉ còn ít tuần nữa. Có người đang gom một số bản nhạc tao đã hát trong cuộc đời ca hát của tao. Mày viết cho tao ít dòng. Nhưng tao không cần mày phải ca ngợi tao. Mày nghĩ sao, thấy thế nào thì cứ viết ra như thế …”
Buông máy xuống, tôi nói với T., về sự tự trọng của Sĩ Phú, cũng giống như tiếng hát của ông, khó tìm thấy nơi người thứ hai.
Tôi cũng muốn kể cho Xuyên Trà nghe, bản chất kín đáo nhưng, chân tình của tác giả “Kinh khổ”, Trầm Từ Thiêng; khi ông rủ tôi ra nhà hàng Denny’s trên đường Beach, chỉ để…“cưa đôi” bản quyền thu băng đầu tiên, ông nhận được từ một trung tâm băng nhạc.
Tôi muốn kể, nhiều thêm, bằng hữu khác. Những người đã “đi xa”, trên, dưới mười năm qua.
Buổi sáng ở Lake City, khi ngôi thánh đường của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Atlanta, (hàng xóm của bạn tôi,) đóng cửa. Nguyên khu nhà đầu dốc, tuồng cũng êm ả trôi theo tiếng động cơ rù rì của đôi ba chiếc xe, đổ dốc về phi trường...
Cuối cùng, tôi lại thấy, không cần thiết nữa, những điều kể trên. Bởi, cùng với những trái thông rớt khô nơi vườn sau ngôi nhà Xuyên Trà, cùng với những bước đi khoan thai của con suối cạn nước, tôi cảm nhận được sự hiện diện, đâu đây, của nhiều người đã khuất. Thỉnh thoảng, tôi vẫn thấy, dường trên từng tấc thịt da, ẩn sâu nơi mỗi rung động, thấp thoáng trong những ngôn ngữ tôi sử dụng, thậm chí, từng hơi thuốc tôi hút…có sự hiện diện của biết bao người thân, biết bao bằng hữu.
Tôi vẫn nghĩ không ai mất đi. Họ vẫn hiện dịên. Cách của họ.
Tôi vẫn nghĩ, thảm kịch, mặt nào đó, cũng đã giúp cho đời sống, thêm đáng sống.
Con người tồn tại được tới ngày hôm nay, có dễ cũng nhờ những tia hy vọng, le lói dù, đôi khi, rất ảo!
Cầm lên ly café đã nguội, ngó mông hàng dương bên kia lộ, tôi buột miệng nói với bạn tôi:
“Hạnh phúc thật nhỏ nhoi. Nhỏ nhoi tới tội nghiệp.”
Xuyên Trà đáp:
“Vâng. Đúng thế.”
Ông đứng lên, bước vào nhà.
Trở ra, ông trao cell phone cho tôi.
Đầu giây bên kia bất ngờ: Đinh Cường. Tôi càng bất ngờ hơn, khi Đinh Cường cho biết, ông đang ở xa. Bạn ông đã bước vào giai đoạn cuối. Giống Trương Trọng Trác cách đây mấy tháng.
“...Mọi nhận biết chỉ còn ở tai nghe, bàn tay phải nắm tay người thân và bạn bè, mắt còn hé nhìn, môi còn gọi được tên. Nhưng hiện tại, thì khả năng hoạt động của bốn nơi đó, cũng đang mất dần. Tôi nghĩ, chỉ độ vài ba ngày nữa...” Đinh Cường nói.
Tôi trao máy lại cho Xuyên Trà. Ông hỏi tôi:
“Tin xấu?
Tôi gật đầu:
“Tin xấu.”
Những điếu thuốc khác được đốt thêm.
Buổi sáng, thành phố Lake City vẫn gửi những giải nắng mật ong theo những trái thông, rớt khô xuống sân sau nhà Xuyên Trà. Ngôi thánh đường của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, Atlanta, vẫn đóng cửa. Khu nhà đầu dốc vẫn trôi theo tiếng động cơ rù rì của đôi ba chiếc xe, đổ dốc về phi trường...Nhưng buổi sáng, với tính khí bất thường của mình, đã thình lình, lấy đi khỏi chúng tôi, chút hạnh phúc nhỏ nhoi.
“Nhỏ nhoi tới tội nghiệp.”
- Garden Grove, California, Thứ Hai 1- 6-09: Năm giờ chiều. Gió mang theo hơi nước (như phần dư thừa của một cơn mưa hay, rớt bão, đâu đó,) đi ngang thân thể tôi. Nguyễn Đình Thuần gọi. Báo tin:
“Bạn của anh Đinh Cường đã mất!”
Tôi có lại cái bàng hoàng, như khi được tin Trương Trọng Trác qua đời. Ở cả hai trường hợp, tôi biết chắc chắn, ngày tôi mất họ, không xa. Nhưng, phải chăng, sự biết trước (dù chắc chắn đến đâu,) đôi khi, vẫn nghịch chiều xúc động?
Tôi bảo Thuần, Đinh Cường mới nói với tôi sáng qua, ít gì cũng sẽ được đôi ba ngày...
Thuần quả quyết:
“Không. Chính anh Đinh Cường xác nhận với Thuần…”
Lần này, tôi không phải trả điện thoại lại cho ai. Chỉ có gió tiếp tục mang theo hơi nước (như phần dư thừa của một cơn mưa hay, rớt bão, đâu đó,) đi ngang thân thể tôi.
Buổi chiều, sau đấy, tôi nhận được điện thư của bạn tôi ở xa. Hỏi tôi đã biết tin bạn Đinh Cường? Thư ngắn. Rất ngắn. Chấm dứt bằng hai chữ “Tội nghiệp.”
Tôi không biết hai chữ “tội nghiệp” bạn tôi dành cho ai?
-Lucille, Garden Grove, Thứ Năm, 5-6-09: Tôi nhận được điện thư của Đinh Cường, báo tin đã trở lại Virginia.
Tôi rời bàn máy. Ra sân. Tự cho phép mình hút một điếu thuốc mới. Trở vào. Tôi “reply” bạn tôi, vắn tắt:
“Mất hay còn, chưa hẳn khác nhau đâu. Bạn đồng ý?”
Thay vì trả lời, Đinh Cường viết lại cho tôi hai câu thơ cũ:
“chúng ta cùng một thuyền / trôi lần vào bóng tối.” (*)
Tôi hiểu, khác biệt giữa chúng ta, bất cứ một kẻ nào, cũng chỉ là hai chữ “đã” và “sẽ”! Nên, tôi nhìn những bằng hữu đã “đi xa” của tôi, như những tấm gương.
Tấm gương cống hiến và, lòng tử tế, khi còn sống.