Câu hỏi của Nguyệt Mai
Kính thưa
anh Đỗ Hồng Ngọc,
Cám ơn anh rất nhiều đã trả lời
câu hỏi của em. Những giai thoại về các nhà văn Nguiễn
Ngu Í, Nguyễn Hiến Lê và nhạc sĩ Trần Văn Khê rất hay
và thú vị. Em thích lắm. Anh kể tiếp nữa nghe. Chắc
chắn mọi người rất thích. Lần này em muốn nghe giao
tình của anh với nhà thơ Du Tử Lê. Anh có thể kể cho
em và độc giả nghe được không?
Cám ơn anh.
Nguyệt
Mai
Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) trả lời:
Tình cờ lục lọi đống sách báo cũ thì gặp được tờ Tin Sách, nguyệt san do Trung tâm Văn bút Việt Nam xuất bản, bộ mới, số 38, tháng 8-1965 có bài Điểm sách của Đỗ Nghê về tập “Thơ Du Tử Lê”, tập thơ đầu tay của anh, do chính tác giả tự xuất bàn. Ái dà, vui quá, đọc lại coi hồi đó - gần nửa thế kỷ trước- “bọn trẻ” mình viết lách ra sao! Cũng không đến đỗi nào!
Hãy đọc thử vài đoạn trong bài Điểm sách này:
Thơ DU TỬ LÊ- Tác giả xuất bản- Saigon 1965
Khổ 15x21 - 70 trang - 48đ
Tôi chưa được biết Du tử Lê, nhưng đọc thơ anh tôi thấy như quen đã từ lâu, rất gần gũi (…). Du tử Lê đến bằng bước chân ca dao, ngọt ngào, tình tứ, bằng một tâm hồn yếu đuối, đam mê và rất nhiều dằn vặt, xót xa về quê hương, về số kiếp…
tôi còn tiếng nói
tôi còn linh hồn
tôi còn dĩ vãng
tôi còn quê hương
tôi còn lịch sử
tôi còn là tôi
(tuyên ngôn)
(…) Thơ Du tử Lê giản dị mà không thiếu truyền cảm vì đã nói lên ý nghĩ thực: không cầu kỳ, không ngạo nghễ, kiêu sa như phần đông những nhà làm thơ thời thượng.
Bắt đầu một ngày
Con người múa may
…..
Kết thúc một ngày
Con người thua cay…
(Một ngày của con người)
(…) Bên cạnh một Du tử Lê đầy hoang mang, khắc khoải, thao thức đó, còn có một Du tử Lê mềm yếu, đam mê, lãng mạn. Ở đây Du tử Lê cũng trung thành với kỹ thuật của anh. Không có những cầu kỳ, bí hiểm, sáo ngữ mà là những lời ca dao (...)
Và đây nữa là cái lãng mạn của Lê, cái lãng mạn thực dễ thương:
* tình tôi đam mê hồn tôi yếu
đuối
ánh mắt nụ cười em đã giết
tôi...
* mai em có con tay bế tay bồng
mai em yêu con, mai em thương
chồng
tôi chỉ xin em một lần kể
lại
chuyện em sang sông: có tôi đau
lòng
(thư cho em)
Và cái nhìn đầy triết lý bi quan:
cầm bằng bãi gió mây qua
đôi chân nhỏ dại lỡ sa vào
đời
cầm bằng nước mắt trôi
xuôi
tiếng đâu thê thảm ru dài
không gian
(Cầm bằng)
(Đỗ Nghê- Tin sách Bộ mới, số 38, tháng 8-1965 trang 9-11)
Không biết Du Tử Lê bây giờ khi đọc lại những dòng này thấy sao, có ngượng, có mắc cỡ gì không, chớ tôi thì tôi cảm động! Lúc đó bọn tôi đều mới ngoài hai mươi!
Những năm gần đây, khi có dịp gặp lại nhau ở Saigon, Du Tử Lê thường nhắc: Thời đó, một nhà thơ trẻ, có tập thơ đầu tay bao giờ cũng bị… đập, vậy mà Đỗ Nghê đã viết những lời trang trọng. Còn tôi, tôi cũng nói với bạn rằng tôi nghĩ thơ là tấc lòng, “thốn tâm thiên cổ”, cái còn lại là cái tình. Chẳng hạn, với tôi, khi nhắc Du Tử Lê tôi chỉ còn nhớ Thụy ơi, và tình ơi! “Như loài chim bói cá. Trên cọc nhọn trăm năm. Tôi tìm đời đánh mất… Thụy ơi, và tình ơi…” (Khúc thụy du, DTL) hay gần đây “khi tôi chết hãy đem tôi ra biển / đời lưu vong không cả một ngôi mồ / vùi đất lạ thịt xương e khó rã / hồn không đi, sao trở lại quê nhà” (DTL). Nhiều câu chữ tôi không nhớ đâu, mà cũng chẳng cần nhớ đúng, nhưng cái tình trong thụy ơi và tình ơi hay hãy đem tôi ra biển thì tôi không thể nào quên. Tôi nhớ có lần đi xe lửa từ Baltimore về Washington DC sau khi thăm John Hopkins trở về thì cô Susan Barnes người cùng đi đã hỏi tôi về thơ “đương đại” ở Việt Nam! Tôi nhắc đến nhiều người và đọng lại ở Đỗ Trung Quân. Tôi biết là dù tôi có… dịch được thơ Đỗ qua tiếng Anh đi nữa thì cô cũng chẳng hiểu gì nên chỉ kể cô nghe bài thơ của Đỗ về ông giáo già bán thuốc lá bên vệ đường để kiếm sống, không dám nhận mình là thầy khi cậu học trò bảnh bao đến mua thuốc lá đã “tôn sư trọng đạo” chào ông! Cô Susan Barnes đã rơm rớm nước mắt! Tôi nhớ thơ Phan Khôi cũng chỉ vì “tình cờ đất khách gặp nhau hai mái đầu đều bạc… liếc mắt đưa nhau rồi con mắt còn có đuôi”. Mắt có đuôi. Vậy là đủ. Cũng như tôi nhớ “… yểu điệu thục nữ/ quân tử hảo cầu” trong Kinh Thi ngàn năm trước, mà không cần biết hồi đó chữ viết cổ nó ngoằn ngoèo ra sao! Bây giờ thì thơ Du Tử Lê đã có những sắc thái riêng, riêng đến nỗi thành một trường phái - không ít người đang làm giống anh! Tôi không nói những dấu chấm dấu phẩy dấu dọc dấu ngang của thơ anh bây giờ là không cần thiết, vì nhờ đó khiến bài thơ mang nhiều vóc dáng khác, nhiều ý nghĩa khác, và người đọc có thể “tham gia”, thành một thứ thơ “tương tác”, hiện đại và độc đáo.
Nói về thơ “tương tác”, bỗng nhớ có một bài viết lâu rồi trên Tạp chí Thơ: rằng với hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương: “Em ơi lửa tắt bình khô rượu / Đời vắng em rồi say với ai?” có thể đọc theo lối ngắt dòng, ngắt chữ thành: Em ơi / Bình rượu khô / Lửa tắt. Vắng em / Say với ai / Rồi đời!
Khi viết bài điểm sách Thơ Du Tử Lê trên Tin Sách, chúng tôi chưa quen biết nhau. Một hôm, năm 73 thì phải, dutule ôm thằng con nhỏ chạy vào bệnh viện Nhi đồng tìm tôi ở phòng Cấp cứu. Thằng nhỏ bị bệnh Bạch hầu (Dipthérie) nặng, màng giả (fausse membrane) đã lan rộng, chặn nghẹt cổ họng làm hết thở! Bé lập tức được đặt ống nội khí quản giúp thở, làm hô hấp nhân tạo và chích huyết thanh, vaccin, cùng kháng sinh các thứ. Từ đó thân nhau. Vậy là “nghề” và “nghiệp”có chút gắn bó phải không Nguyệt Mai?
Rồi một tối nọ, anh gọi tôi khẩn cấp: Đỗ Nghê đến “cứu” mình với! Thì ra có một nữ độc giả ái mộ thơ Du Tử Lê đang ngồi đợi anh ở quán café H, Đakao. Anh kẹt vì một lý do gì đó không biết, nhờ tôi tới “cứu bồ”. Tôi xách xe đến gặp cô nàng trò truyện… suốt buổi về thơ Du Tử Lê! Mấy chục năm sau, gặp lại Du Tử Lê và phu nhân của anh về thăm quê hương hóa ra là nàng… Chính là cô gái mê thơ dutule đã gặp năm xưa ở quán café!
Có người nói anh có số đào hoa! Có người nói anh có cái giọng khiến con kiến… trong hang cũng phải bò ra! Tôi không biết. Với tôi, anh vẫn vậy. Nhỏ nhẹ. Dễ thương. Lãng mạn. Sâu sắc. Một lần anh vén bụng cho tôi xem vết mổ ở ruột già. Tôi hiểu tại sao thơ anh có “buổi chiều hóa trị”, có những “công án thiền” và hình ảnh bệnh viện âm u... Nhìn sắc diện anh, nhìn vết mổ, tôi bảo chưa sao đâu. Quả thật những tháng ngày qua, Du Tử Lê làm việc với một sức đáng nể. Anh đã làm được nhiều việc, nhiều điều hơn xưa. Có lần anh gởi tặng tôi tập thơ “Năm chữ và 12 bài thơ mới”, ngay ở trang đầu thấy ghi khuyên độc giả không nên đọc quá 3 bài. Tôi thử đọc vài bài và thấy anh có lý. Thơ anh bấy giờ, đọc quá ba bài chắc bị… tẩu hỏa nhập ma! Tôi bèn đùa anh bằng cách chép nguyên phần mục lục (tựa cũng toàn 5 chữ) ghép thành một bài thơ trời ơi và gởi lại hỏi biết thơ ai? lúc nào? ở đâu không? Anh nhận ra thơ Du Tử Lê nhưng chịu không thể biết đã viết lúc nào, ở đâu. Những chuyện đùa rất “giai thoại” này làm chúng tôi quý nhau hơn. Gần đây, thơ anh đã có vẻ khác.
tôi vẫn muốn kể em nghe,
dù ta sẽ đánh rơi ngày sắp
tới.
và hàng cây không nhớ nổi
con đường!?!
khi em chảy tiếp những giọt
lệ,
từ sớm mai tới buổi chiều
không cánh cửa mở vào cao
ốc.
nơi em thả rơi không chỉ
những sợi tóc…
(Lúc tình yêu hiện ra: như một người khách lạ)
hay những câu rất riêng này mà chỉ tôi thân tình mới hiểu: đời đánh cắp từ tôi chiều-tóc-mẹ./ em mùi hương một chỗ-rất-riêng-tư./ ai nửa ngực? bỏ ai về với đất?/ đêm tặng tôi thân-thiết-đóa-thiên-thu.
Hình như tôi vừa gặp lại một Du Tử Lê của nửa thế kỷ trước, của Tình ca!
Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)
(Saigon, 7.2013)
……………………………..
Ghi chú: Thời đó, tên người, chữ lót không viết hoa.